Những ngày đầu năm mới, trong lúc đi chúc Tết họ hàng, làng xóm trên khu vực bàn thờ gia tiên mỗi gia đình quê tôi ngoài mâm ngũ quả đặc trưng tôi còn thấy xuất hiện của một loài sản vật hết sức đặc biệt. Đó chính là cây mía. Đây không phải điều gì mới mẻ nhưng nó gợi lại trong tôi về một nét phong tục, văn hóa hết sức nhân văn, đẹp đẽ trong Tết cổ truyền dân tộc.
Tục thờ mía trong ngày Tết có từ bao giờ quả là một ẩn số khó trả lời đối với lớp hậu sinh chúng ta. Nhưng có lẽ, nguồn gốc của tín ngưỡng đã bắt nguồn từ rất xa xưa.
Xem thêm
- Các mẫu bát hương đá trên bàn thờ gia tiên dòng họ đẹp
- Mẫu lọ hoa đá đẹp tại Đá mỹ nghệ 35 Ninh Bình
- Mẫu mâm bồng đá hay đĩa đá đẹp đặt ban thờ
- Những mẫu đồ thờ đá đang được ưa chuộng hiện nay
Cây mía trong phong tục thờ cúng gia tiên của người Việt
Mỗi khi Tết đến – xuân về, bên cạnh mâm ngũ quả đặc trưng, trên khu vực bàn thờ gia tiên của gia đình tôi cũng như nhiều gia đình ở các miền quê khác còn thường dựng hai cây mía thật to và thẳng. Đối với người Việt, mỗi sản vật được chọn để dâng lên bàn thờ gia tiên đều hàm chứa trong đó những ý nghĩa. Việc cây mía được sử dụng trong nghi lễ thờ cúng trong ngày Tết cổ truyền cũng như vậy.
Theo tín ngưỡng của người Việt, cây mía tượng trưng cho cái thang vì có từng đốt giống như từng bậc thang. Cây thang mía giúp vong linh ông bà, tổ tiên về trần gian ăn Tết cùng con cháu. Nguồn gốc của tín ngưỡng này ít nhiều gắn liền với văn hoá nông nghiệp của người Việt từ xa xưa.
Đến ngày nay, tuy không còn phổ biến nữa nhưng phong tục thờ cây mía vẫn được gìn giữ trong khá nhiều gia đình Việt. Mỗi dịp Tết cổ truyền, bên cạnh mâm ngũ quả tượng trưng cho âm dương – ngũ hành, các gia đình thường chọn hai cây mía thật to, thật thẳng để dựng hai bên bàn thờ tổ tiên.
Cây mía tượng trưng cho sự giao hòa trời – đất, kết nối hai thế giới âm – dương. Tán lá tượng trưng cho mây, trời. Gốc, rễ tượng trưng cho đất, nguồn cội. Những dóng mía lúc này như những nấc thang nối liền đất – trời, âm – dương, dẫn đón linh hồn tổ tiên từ trên trời trở về hạ giới để sum vầy cùng con cháu trong những ngày đầu tiên đầy ý nghĩa của năm mới.
Khi chọn cây mía làm sản vật thờ cúng, cha ông ta đã gửi vào đó những ước mong gắn liền với đặc trưng vốn có của cây mía. Ví dụ như vị ngọt của mía tượng trưng cho vị ngọt của cuộc sống với những điều may mắn, tốt đẹp. Cũng từ vị ngọt của mía, người ta mong muốn giữ sự ngọt ngào từ năm cũ sang năm mới để kì vọng mọi việc trong năm mới được êm ngọt.
Hay như sự rắn chắc, mạnh mẽ vươn cao của cây mía tượng trưng cho sức khoẻ và sự thành công… Chính vì vậy, cây mía không chỉ đơn thuần là sản vật dâng cúng gia tiên mà đã trở thành một biểu tượng văn hoá tâm linh của người Việt. Biểu tượng đó nếu được giữ gìn sẽ giúp cho ngày Tết cổ truyền của dân tộc thêm đậm đà.
Tuy có nhiều cách giải thích khác nhau về tục lạ này, nhưng tựu trung lại cách giải thích nào cũng thể hiện cái tâm hướng nguồn và hướng tới sự tốt đẹp. Và tại nhiều vùng xuôi cây mía sẽ được hạ xuống khỏi khu vực bàn thờ gia tiên sau ngày khai hạ (mùng 7/1 âm lịch).
Ngoài ra, tại nhiều vùng tuy không có tục thờ cây mía nhưng sau lễ Giao thừa mía cũng là sản vật được nhiều người chọn mua để lấy may.
Cây mía không chỉ được người Kinh sử dụng trong nghi lễ thờ cúng gia tiên vào ngày Tết Nguyên đán mà cũng được nhiều dân tộc thiểu số khác như Tày – Thái sử dụng khi thực hành các nghi lễ tín ngưỡng. Trên cây mía, đồng bào các dân tộc này còn treo trầu cau, bánh trái, giấy bản nhằm dâng cúng tổ tiên.
Theo quan niệm của đồng bào nơi đây, trầu cau têm giống hình con chim, được xem là biểu tượng gắn kết giữa con người với thần linh. Người ta buộc bốn cây mía vào chân bàn thờ với ý nghĩa vừa thể hiện lộc xuân vừa làm gậy chống cho tổ tiên đi về hưởng lễ.
Cây mía trong quan niệm của người Tày -Thái còn được xem là nấc thang kết nối giữa con người với Mường Trời (Mường Then/phạ); nó còn thể hiện cho các bước phát triển của một kiếp người từ khi sinh ra, lớn lên, lập gia đình và kết thúc sự tồn tại của mình bằng cách nở hoa.
Hình ảnh bông mía được xem là sự kết thúc và cũng là khởi đầu một cuộc sống mới. Theo quan niệm tái sinh luân hồi (hạt cây mía chứa cả nhị đực và nhị cái), những bông mía bay vào không trung tựa như cát bụi lại trở về với cát bụi và bắt đầu một kiếp người mới.
Bởi vậy, người Tày-Thái dùng cây mía trong thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên được xem là sự trọn vẹn thủy chung, vừa là nấc thang gắn kết với tổ tiên trên trời (thể hiện qua các đốt của cây mía), vừa thể hiện cho sự ngọt lành, lộc lá.
Với ước nguyện về một năm mới vạn sự hanh thông, mọi thứ được diễn tiến theo chu kỳ vốn có của nó, vừa thể hiện cho một ý nguyện trước sau như một của con cháu với ông bà tổ tiên. Cây mía hội tụ đầy đủ các hàm ý, mong ước trong một năm mới hay khởi đầu của đời người (cúng mụ), trưởng thành (cưới xin) cũng như kết thúc một kiếp người ở nhân gian (chết).
Có lẽ vậy, cây mía mới xuất hiện trong các thực hành nghi lễ khác nhau của người Tày – Thái từ ngày lễ, Tết đến các nghi lễ vòng đời và các nghi lễ cộng đồng.
Những gì mà người Việt gửi vào tín ngưỡng thờ cúng cây mía ngày Tết đã đề cập ở trên chắc hẳn là chưa đủ đầy. Lí do là ở chỗ do quan niệm của từng người, từng vùng miền đôi chỗ có khác nhau. Tuy nhiên chừng ấy cũng đủ thấy sự phong phú và những nét đẹp tâm linh trong văn hóa tết cổ truyền dân tộc Việt Nam.
Cội nguồn Phật giáo
Theo chuyên gia về văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, nguyên giảng viên khoa Văn học ĐH KHXH & NV, ĐH Quốc gia Hà Nội cho rằng: Trong Phật giáo Ấn Độ, theo truyền thống trước đó, tổ tiên Thích ca được cho là thuộc họ Mía.
Về nguồn gốc của dòng họ Mía của Phật, có nhiều thuyết được ghi sớm ở các kinh sách khác nhau, đại đồng tiểu dị.
Theo truyền thuyết về cây mía được ghi trong “Phật bản hạnh tập” quyển 5 kinh Phật tạng chép: Vua cây mía hay còn được gọi là Cam giá vương, trước vua Cam giá, có vua tên là Đại mao thảo vương, bỏ ngôi vua đi xuất gia, được năm thần thông, gọi là Vương tiên. Vương tiên già yếu không đi được, các đệ tử ra ngoài xin ăn, sợ thầy ở nhà bị hùm sói bắt, bèn để thầy vào chiếc lồng bằng cỏ rồi treo trên cây. Bấy giờ có người đi săn, nhận lầm Vương tiên là con chim trắng, mới giương cung bắn chết, chỗ máu của Vương tiên rỏ xuống, sau mọc lên hai cây mía, mặt trời nóng quá, hai cây mía nứt ra và sinh một bé trai, một bé gái.
Đại thần hay tin, rước về trong cung nuôi nấng. Bé trai vì ánh nắng làm nứt cây mía mà sinh, nên đặt tên là Thiện giá sinh; lại do mặt trời nung nên gọi là Nhật chủng; còn bé gái thì đặt tên là Thiện hiền. Sau lập Thiện sinh làm vua và Thiện hiền được lập làm hoàng hậu. Thiện hiền sinh được một đứa con. Sau vua lấy thêm hai người vợ sinh được 4 đứa con. Thiện hiền muốn lập con mình làm vua, bèn khuyên vua đuổi 4 đứa con kia ra khỏi nước. Bốn người con ấy dựng nước phía sau núi Tuyết lập nên họ Thích ca.
Chính vì nguồn gốc này, ở Việt Nam, khi vãn cảnh chùa, tức là đến với chốn Phật, phải trèo dốc cao, người ta thường bán mía làm gậy với ý nghĩa hồi hướng về cõi Phật tổ.
Vì vậy, cây mía ở đây sẽ biểu tượng cho cội nguồn dòng họ của Phật tổ Như lai, thờ mía cũng là thờ cội nguồn Phật giáo.
Trong đời sống hiện đại, nhiều nét văn hóa cổ truyền sẽ dần dần bị lãng quên, chỉ có tập tục là lưu giữ lâu bền như một quán tính văn hóa. Rồi dân gian, đến lượt nó lại sáng tạo ra nhiều truyền thuyết, giai thoại để giải thích lại, tạo ra tâm thức cộng đồng phong phú, thú vị.
Điều này tồn tại như một phong cách sáng tạo của nghệ thuật ngôn từ dân gian. Tuy nhiên, cảm hứng hướng đến nguồn cội thì vẫn đậm đà đặc biệt khi Tết đến, người ta ngẫm nghĩ về quá khứ, thực hành trong hiện tại và kì vọng về tương lai.
Cây mía vốn đem lại sự ngọt lành trong đời sống, nay được thờ tự, lại thêm phần thiêng liêng, ý nghĩa.
Nguồn: Sưu tầm